Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

Mai Thái Lĩnh- Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong (Bàn về lý thuyết Nhà nước của Karl Marx)

Chương IV: Những đóng góp của F. Engels



Mặc dù quan niệm về nhà nước của Marx đã dần dần được hình thành trên những nét lớn; nhưng cho đến khi mất, ông vẫn không dành riêng một tác phẩm nào để hệ thống hoá toàn bộ quan niệm ấy. Do coi trọng kinh tế hơn chính trị, từ đầu thập niên 50 của thế kỷ XIX, Marx dành phần lớn thời gian để nghiên cứu lĩnh vực kinh tế, nhất là để hoàn thành bộ Tư bản. Chính Engels mới là người đã góp công hoàn chỉnh lý thuyết về nhà nước của Marx.



Sau khi Marx mất, Engels đã bắt tay vào nghiên cứu xã hội thời cổ đại. Dựa trên tác phẩm Ancient Society (Xã hội thời cổ, xuất bản năm 1877) của nhà nhân chủng học người Mỹ Lewis H. Morgan, viết về các bộ lạc của thổ dân ở Bắc Mỹ; đồng thời dựa trên bản tóm tắt chi tiết của Marx về tác phẩm này, Engels đã hoàn thành cuốn Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước (xuất bản lần đầu năm 1884). Ông coi đây là một việc làm nhằm thực hiện di chúc của Marx. Trong tác phẩm này, Engels đã trình bày khá tỉ mỉ về sự ra đời, phát triển và tiêu vong của nhà nước trong lịch sử.



Về nguồn gốc của nhà nước trong lịch sử, Engels đã trình bày sự hình thành của ba nhà nước tiêu biểu ở châu Âu: nhà nước Athena ở Hy Lạp thời cổ đại, nhà nước La Mã thời cổ đại, và nhà nước của người German (Germain) cuối thời cổ đại. Qua đó, ông chứng minh rằng cả ba nhà nước này đều nảy sinh từ sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, nói chính xác hơn là từ sự tan rã của chế độ thị tộc.



Mặc dù chế độ thị tộc thời nguyên thuỷ không còn tồn tại, nhưng người ta vẫn có thể tìm hiểu thông qua những tàn tích của chế độ thị tộc còn sót lại. Trong tác phẩm của mình, Morgan trình bày khá tỉ mỉ về chế độ thị tộc của người Iroquois ở Bắc Mỹ - nhất là các thị tộc thuộc bộ lạc Seneca ở tiểu bang New York (Hoa Kỳ) mà ông đã từng tiếp xúc trực tiếp để quan sát, nghiên cứu qua nhiều năm.



Dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc (gens, clan) là đơn vị cơ bản của xã hội. Cơ quan quyền lực tối cao của thị tộc là Hội đồng thị tộc, tức là đại hội dân chủ gồm tất cả các thành viên của bộ lạc, kể cả nam và nữ, tất cả đều có quyền bầu cử như nhau. Hội đồng bầu ra và bãi miễn tù truởng và thủ lĩnh quân sự; nhưng quyền lực của tù trưởng chỉ là quyền lực gia trưởng, thuần về mặt đạo đức, không có phương tiện cưỡng bách nào cả; còn thủ lĩnh quân sự thì chỉ có thể ra mệnh lệnh trong thời gian xuất chinh mà thôi. Nhiều thị tộc họp thành bào tộc (phratry, phratrie), nhiều bào tộc họp thành bộ lạc (tribe, tribu). Bộ lạc có quyền bãi chức những tù trưởng hay thủ lĩnh quân sự của thị tộc ngay cả khi thị tộc không đồng ý. Đứng đầu bộ lạc là Hội đồng bộ lạc, bao gồm tất cả các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của các thị tộc. Hội đồng bộ lạc họp công khai, đứng xung quanh là các thành viên khác của bộ lạc, họ có quyền tham gia thảo luận và phát biểu ý kiến, nhưng quyền quyết định thuộc về Hội đồng. Nhiệm vụ chính của Hội đồng bộ lạc là điều tiết các quan hệ đối ngoại với các bộ lạc khác, tuyên chiến và ký hoà ước. Trong một vài bộ lạc, có một vị thủ lĩnh tối cao nhưng quyền hành rất hạn chế: đó là một trong các tù trưởng có nhiệm vụ ban hành những biện pháp tạm thời trong trường hợp khẩn cấp trước khi Hội đồng bộ lạc có thể họp lại để quyết định dứt khoát.



Trong lúc tuyệt đại đa số người Indians ở châu Mỹ chưa vượt qua giai đoạn hình thành bộ lạc thì riêng người Iroquois đã tiến tới giai đoạn hình thành Liên minh bộ lạc (theo Morgan có năm bộ lạc). Cơ quan quyền lực của liên minh là Hội đồng liên minh, gồm 50 tù trưởng, tất cả đều có uy tín và địa vị ngang nhau; không có ai đứng đầu liên minh, không có người nào đứng đầu quyền hành pháp, nhưng lại có hai thủ lĩnh quân sự tối cao, có quyền hạn và nhiệm vụ ngang nhau. Nhận xét về xã hội của người Iroquois, “một xã hội chưa từng biết đến nhà nước”, Engels viết:



Với tất cả cái tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy.(…) Mặc dù những công việc chung là nhiều hơn ngày nay rất nhiều - nền kinh tế gia đình được một loạt gia đình tiến hành chung và theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa; đất đai là tài sản của toàn thể bộ lạc,chỉ có những mảnh vườn nhỏ bé mới tạm giao cho các gia đình sử dụng, - nhưng người ta vẫn không hề cần đến cái bộ máy quản lý cồng kềnh và phức tạp của chúng ta. Mọi việc đều do những người hữu quan tự giải quyết lấy và trong đa số các trường hợp, một tập quán lâu đời đã giải quyết trước tất cả mọi việc rồi. (Sđd, T. VI, tr. 151-152)



Dưới thời cộng sản nguyên thuỷ, sự phân công lao động hoàn toàn mang tính chất tự nhiên: chỉ có sự phân công giữa nam và nữ. Kinh tế gia đình là kinh tế cộng sản chung cho nhiều gia đình, thường là chung cho một số lớn gia đình. “Cái gì cùng nhau làm ra và dùng chung, cái đó là tài sản chung, như nhà cửa, vườn tược và thuyền độc mộc”. (Sđd, T. VI, tr. 244)



Sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên là sự tách rời giữa trồng trọt và chăn nuôi. Ở các bộ lạc du mục, sản xuất tăng nhanh và sở hữu tư nhân bắt đầu xuất hiện. Khi các đàn gia súc trở thành sở hữu tư nhân thì việc trao đổi hàng hoá trở thành thường xuyên; gia súc bắt đầu trở thành tiền tệ (vật ngang giá chung). Người ta làm ra được khung dệt và chế tạo ra các công cụ bằng đồng. Nghề trồng trọt và nghề thủ công cũng phát triển hơn. Sản xuất tăng nhanh khiến cho sản phẩm làm ra nhiều hơn số sản phẩm cần thiết cho sinh hoạt của thị tộc. Do đó đẻ ra nhu cầu thu hút sức lao động mới. Tù binh trong chiến tranh biến thành người nô lệ. Như vậy, từ sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất, đã nảy sinh ra sự phân chia giai cấp đầu tiên: xã hội phân thành hai giai cấp – chủ nô và nô lệ. Chế độ mẫu quyền sụp đổ, nhường chỗ cho chế độ phụ quyền.



Đến thời đại đồ sắt, lại diễn ra sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Chế độ nô lệ trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội: nô lệ không chỉ là người giúp việc đơn thuần mà bị đẩy đi làm việc ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ thành từng đoàn mươi, mười hai người một. Sản xuất hàng hoá ra đời, và cùng với nó là thương nghiệp. Bên cạnh sự phân biệt giữa người tự do và nô lệ đã xuất hiện sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo. Đất đai do thị tộc tạm cấp trước đây dần dần chuyển thành sở hữu tư nhân. Sự hợp nhất những bộ lạc biến lãnh thổ riêng của các bộ lạc thành lãnh thổ chung. Thủ lĩnh quân sự (rex, basileus, thiudans) do dân bầu ra dần dần trở thành viên chức thường xuyên. Các cơ quan của xã hội thị tộc trước đây (thủ lĩnh quân sự, hội đồng, đại hội nhân dân) phát triển thành nền dân chủ quân sự (military democracy, démocratie militaire).



Chiến tranh trước kia chỉ nhằm để trả thù những vụ xâm lược hay để mở rộng lãnh thổ thì nay trở thành một ngành “kinh doanh” thường xuyên. Những cuộc chiến tranh cướp bóc làm tăng thêm quyền lực của thủ lĩnh quân sự tối cao cũng như quyền lực của các thủ lĩnh quân sự dưới quyền của người đó. Tập quán lựa chọn thủ lĩnh trong cùng một gia đình dần dần trở thành một sự kế thừa cha truyền con nối:



Như vậy là những cơ quan của tổ chức thị tộc đã dần dần tách khỏi cái gốc rễ của chúng trong nhân dân, trong thị tộc, bào tộc, bộ lạc; và toàn bộ tổ chức thị tộc chuyển hoá thành cái đối lập với nó; từ chỗ là một tổ chức của bộ lạc nhằm giải quyết một cách tự do những công việc của mình, tổ chức thị tộc đã trở thành một tổ chức để cướp bóc và áp bức láng giềng; và do đó, các cơ quan của nó, lúc đầu là công cụ của ý chí của nhân dân, đã trở thành những cơ quan độc lập nhằm thống trị và áp bức chính ngay nhân dân. (Sđd, T. VI, tr. 252)



Lúc này ta đang đứng ở ngưỡng cửa của thời đại văn minh. Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn càng trầm trọng. Lại xuất hiện thêm sự phân công lớn lần thứ ba: sự xuất hiện của thương nghiệp:



Ở đây, lần đầu tiên, xuất hiện một giai cấp, tuy không tham gia sản xuất một tí nào, nhưng lại chiếm toàn quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế; nó tự đứng ra làm kẻ trung gian không thể thiếu được giữa hai người sản xuất và bóc lột cả hai. (Sđd, T. VI, tr.254)



Cùng với những thương nhân là sự xuất hiện của tiền kim loại (tức tiền đúc), và xuất hiện việc cho vay lấy lãi. Bên cạnh của cải bằng hàng hoá và nô lệ, bên cạnh của cải bằng tiền, còn xuất hiện của cải bằng ruộng đất. Từ chỗ là tài sản của thị tộc, ruộng đất trở thành hàng hoá, có thể đem bán hay cầm cố được. Sự tích tụ và tập trung của cải vào tay một số ít người diễn ra cùng lúc với sự bần cùng hoá ngày càng tăng của quần chúng và sự tăng thêm của đám đông dân nghèo. Bên cạnh những người dân tự do phân chia thành nhiều giai cấp tuỳ theo tài sản của họ, thì số nô lệ tăng lên rất đông (nhất là ở Hy Lạp); lao động cưỡng bách của nô lệ là cơ sở trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng của toàn bộ xã hội. Xã hội thị tộc tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp đối kháng:



Cuối cùng, tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đến mâu thuẫn nội tại và nó chỉ thích hợp với một xã hội kiểu ấy mà thôi. Ngoài dư luận công chúng ra, nó không có một phương tiện cưỡng chế nào cả. Nhưng bây giờ, một xã hội mới đã ra đời, một xã hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại của nó mà phải chia ra thành những người tự do và nô lệ, thành những kẻ giàu có đi bóc lột và những người nghèo khổ bị bóc lột, một xã hội không những không thể lại điều hoà một lần nữa những mặt đối lập đó, mà còn buộc phải đẩy chúng đi đến chỗ ngày càng gay gắt. Một xã hội như vậy chỉ có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh không ngừng và công khai giữa các giai cấp đó với nhau, hoặc giả là tồn tại dưới sự thống trị của một lực lượng thứ ba, một lực lượng tựa hồ như đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với nhau, dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy và cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức thị tộc đã không còn tồn tại nữa. Nó đã bị sự phân công và hậu quả của sự phân công ấy, tức là sự phân chia của xã hội thành giai cấp, phá tan. Nó đã bị nhà nước thay thế. (Sđd, T. VI, tr. 258-259)



Từ những căn cứ đó, Engels kết luận:



Vậy nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội. Nó càng không phải là cái "hiện thực của ý niệm đạo đức", là "hình ảnh và hiện thực của lý tính" như Hegel khẳng định. Đúng ra, nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định; nó là sự thú nhận xã hội đó bị lúng túng trong một mối mâu thuẫn với bản thân mà không sao giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được. Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng "trật tự"; và lực lượng đó, nảy sinh ra từ xã hội, nhưng lại đứng lên trên xã hội và ngày càng xa rời xã hội, chính là nhà nước. (Sđd, T. VI, tr. 260-261)



Engels nêu ra những đặc trưng của nhà nước làm cho nó phân biệt với tổ chức điều hành của xã hội thị tộc:

Đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia dân cư theo địa vực chứ không phải theo quan hệ dòng máu.



Đặc trưng thứ hai là sự thiết lập một quyền lực công cộng tách rời khỏi xã hội: quân đội thường trực thay cho nhân dân tự vũ trang, ngoài ra còn có đội cảnh binh và những công cụ vật chất khác như nhà tù và đủ loại cơ quan cưỡng bức khác.



Đặc trưng thứ ba là sự đóng góp của công dân thông qua thuế má nhằm để duy trì quyền lực công cộng đó; trong thời hiện đại, ngoài thuế ra còn có công trái.



Đặc trưng thứ tư là bọn quan lại (các công chức) [7] . Nắm được quyền lực công cộng và quyền thu thuế, các quan lại (công chức) được đặt lên trên xã hội. Nhà nước mọc lên từ xã hội nay trở thành xa lạ, đối lập với xã hội; quyền uy mang tính chất cưỡng bách thay cho lòng tôn kính tự nguyện trước kia:



Viên cảnh sát tồi nhất của một nhà nước văn minh vẫn có “quyền uy” hơn tất cả những cơ quan của xã hội thị tộc cộng lại; nhưng một vương công có thế lực nhất, một chính khách hoặc một chỉ huy quân sự lớn nhất của thời đại văn minh vẫn có thể ghen với vị thủ lĩnh nhỏ nhất trong thị tộc về sự tôn kính tự nguyện và không thể tranh cãi được mà vị thủ lĩnh ấy được hưởng. Đó là vì vị thủ lĩnh thị tộc nằm ngay trong lòng xã hội, còn những người kia thì bắt buộc phải mong muốn đại biểu cho một cái gì ở bên ngoài và đứng trên xã hội. (Sđd, T. VI, tr. 263)



Về bản chất của nhà nước, Engels cho rằng mặc dù trong quá trình phát triển, nhà nước đã mang nhiều hình thức khác nhau, nhưng bao giờ nó cũng là công cụ của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế; điều đó làm cho nhà nước mang bản chất giai cấp:



Vì nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp, nhưng vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước, mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức. (Sđd, T. VI, tr. 263)



Engels nêu ra “ba hình thức nô dịch lớn đặc trưng cho ba thời đại lớn của văn minh”: chế độ nô lệ thời cổ, chế độ nông nô thời trung cổ, và chế độ làm thuê thời hiện đại (Sđd, T. VI,, tr. 269). Tương ứng với ba hình thức bóc lột đó là: nhà nước của chủ nô dùng để đàn áp nô lệ, nhà nước phong kiến - cơ quan của bọn quý tộc dùng để đàn áp nông nô và những nông dân bị phụ thuộc, và nhà nước đại nghị hiện đại - công cụ của tư bản dùng để bóc lột lao động làm thuê (Sđd, T. VI,, tr. 263). Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng trong một số trường hợp ngoại lệ, nhà nước có thể có một mức độ độc lập nào đó đối với các giai cấp đang đối địch nhau; đó là những thời kỳ mà những giai cấp đang đấu tranh lẫn nhau lại gần đạt được một thế quân bình. Chẳng hạn như chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỷ XVII và XVIII (do thế thăng bằng giữa bọn quý tộc và giai cấp tư sản); như chế độ Bonaparte của Đế chế I và đặc biệt là của Đế chế II ở Pháp (đứng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản), hay nhà nước Đức của Bismarck (do thế quân bình giữa các nhà tư bản và công nhân).



Theo Engels, trong đa số nhà nước đã từng tồn tại trong lịch sử, những quyền ban cho công dân còn tỷ lệ với tài sản của họ, điều đó cho thấy rằng nhà nước là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp không có của. Tuy nhiên việc thừa nhận về mặt chính trị sự chênh lệch về tài sản không phải là một dấu chỉ căn bản; nó chỉ chứng tỏ rằng nhà nước đang còn ở một trình độ thấp. Đối với chế độ cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước cao hơn, sự chênh lệch về của cải không còn được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý. Trong chế độ đó, của cải vẫn phát huy quyền lực của nó một cách gián tiếp, nhưng lại càng chắc chắn hơn nhiều: một mặt, dưới hình thức trực tiếp mua chuộc những người công chức; mặt khác, dưới hình thức liên minh giữa chính phủ và sở giao dịch. Ngoài ra, dưới chế độ cộng hoà dân chủ, giai cấp hữu sản thống trị trực tiếp bằng hình thức đầu phiếu phổ thông. Đối với Engels, đầu phiếu phổ thông là một cách thức thống trị của giai cấp tư sản; nhưng cũng là “cái thước đo sự trưởng thành của giai cấp công nhân”.



Việc xác định rằng trong quá khứ, đã từng có lúc xã hội loài người không có nhà nước củng cố thêm lòng tin của những người cộng sản về một tương lai trong đó nhà nước sẽ tự tiêu vong. Engels đã khẳng định điều đó bằng một giọng văn hùng hồn:



Như vậy là không phải lúc nào cũng đã có nhà nước. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành một tất yếu. Bây giờ, chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất, trong đó sự tồn tại của những giai cấp nói trên không những không còn là một sự tất yếu nữa, mà đã trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Những giai cấp đó nhất định sẽ biến mất cũng như xưa kia, chúng nhất định phải xuất hiện. Giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong theo. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng. (Sđd, T. VI, tr. 265-266)



Có thể nói kể từ khi xuất bản, tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước của Engels đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx. Nó tạo ra một căn cứ khoa học, hay ít ra cũng cung cấp một lớp vỏ bề ngoài mang dáng vẻ khoa học cho lý thuyết mác-xít về nhà nước và chuyên chính vô sản. Đầu thế kỷ XX, Lenin đã dựa vào nó như một tác phẩm căn bản để nghiên cứu lý thuyết mác-xít về nhà nước, cũng như để viết cuốn Nhà nước và cách mạng.



© 2005 talawas

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5450&rb=08



[1]"Lassalle, Ferdinand", Microsoft® Encarta® Encyclopedia 2001, © 1993-2000

[2]Harry W. Laidler, History of Socialism, Thomas Y. Crowell Company, New York 1968, tr. 226-227.

[3]"Proudhon, Pierre Joseph", “Anarchism”; Microsoft® Encarta® Encyclopedia 2001, © 1993-2000.

[4]“Proudhon, Pierre-Joseph”, Encyclopaedia Britannica 2000, 1994-2000.

[5]“Bakunin, Mikhail Aleksandrovich”, Encyclopaedia Britannica 2000, 1994-2000.

[6]“Russian anarchist thought”, Encyclopædia Britannica 2000; “Anarchism”, Microsoft® Encarta® Encyclopedia 2001.

[7]Trong bản dịch tiếng Pháp: fonctionnaires (công chức). Xem: Fr. Engels, L’origine de la famille, de la propriété et de l’Etat, traduit par Bracke (A.M. Desrousseaux, Alfred Costes, Paris 1946, tr. 225).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét