Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

Mai Thái Lĩnh- Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong (Bàn về lý thuyết Nhà nước của Karl Marx)

Chương VI:Cuộc đấu tranh giữa hai phái - cải cách và cách mạng



Engels mất vào năm 1895. Vài năm sau, trong lòng Đảng dân chủ - xã hội Đức, chính đảng mạnh nhất của phong trào công nhân lúc đó, những người mác-xít bắt đầu chia thành hai trường phái tư tưởng khác nhau: phái cải cách và phái cách mạng.



Sự hình thành của phái cải cách trong phong trào mác-xít bắt đầu trước hết từ Eduard Bernstein (1850-1932), người thường được coi là cha đẻ của chủ nghĩa xét lại (revisionism). Trong những năm sống lưu vong ở nước Anh, Bernstein đã gần gũi với những người thuộc phái Fabian (Fabianism) và chịu ảnh hưởng những tư tưởng cải cách của phái này. Cuối những năm 1890, ông công bố những quan điểm của mình qua một loạt các bài báo đăng trên tạp chí Neue Zeit, gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trong nội bộ Đảng dân chủ - xã hội Đức. Sau đó, ông gửi một lá thư cho hội nghị của đảng họp tại Stuttgart vào tháng 10 năm 1898, và vài tháng sau, cho xuất bản tác phẩm Những tiền đề của chủ nghĩa xã hội và những nhiệm vụ của Đảng dân chủ - xã hội (bản dịch tiếng Anh có nhan đề là Evolutionary Socialism - Chủ nghĩa xã hội Tiến hoá).



Theo Bernstein, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang một giai đoạn mới với những đặc điểm mới vượt ra ngoài dự kiến của Marx và Engels như: hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa có khả năng tự-điều chỉnh tránh được khủng hoảng, chế độ dân chủ đại nghị tạo điều kiện cho giai cấp công nhân có thể đấu tranh một cách hoà bình trong khuôn khổ của nhà nước hiện hành; sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các tổ chức độc quyền và các phương tiện giao thông, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các nhóm xã hội trung gian song song với xu hướng tập trung sản xuất, v.v… Căn cứ vào tình hình mới đó, ông đã trình bày một loạt luận điểm nhằm xét lại, điều chỉnh chủ nghĩa Marx.



Sự thách thức quan trọng nhất của Bernstein đối với chủ nghĩa Marx chính thống nhằm vào mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Đối với những người mác-xít chính thống, chính mục đích sau cùng của chủ nghĩa xã hội xác định những nguyên tắc của hoạt động thực tiễn trước mắt chứ không phải ngược lại. Bernstein đã tìm cách cắt đứt sự ràng buộc đó giữa mục đích cuối cùng và hoạt động thực tiễn hàng ngày. Đối với ông, chủ nghĩa xã hội không phải là một mục đích mà là một quá trình tiếp diễn không ngừng:



Tôi thành thật thừa nhận rằng tôi đặc biệt ít nghĩ đến, hoặc quan tâm đến, cái thường được gọi là “mục đích cuối cùng của chủ nghĩa xã hội”. Mục đích ấy, dù như thế nào, cũng không là gì đối với tôi, phong trào là tất cả. Và nói đến phong trào, tôi hiểu đó vừa là phong trào chung của xã hội, nghĩa là tiến bộ xã hội, vừa là những hoạt động và tổ chức về chính trị và kinh tế dẫn đến sự tiến bộ đó. (Trích theo: Donald Sassoon, One Hundred Years of Socialism, Fontana Press, Harper Collins Publishers, London, 1997, tr. 17-18)



Về vấn đề nhà nước và dân chủ, Bernstein tin vào những phương pháp của chế độ dân chủ hơn là chuyên chính vô sản, nhằm đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Ông tin vào các phong trào công đoàn và hợp tác xã như những phương tiện để đạt được tiến bộ. Ông định nghĩa dân chủ như một sự vắng mặt của chính quyền mang tính giai cấp, mặc dù nó chưa bao hàm sự xoá bỏ tuyệt đối các giai cấp. Ông coi quyền đầu phiếu phổ thông như “sự thay thế cho một cuộc cách mạng bằng bạo lực”:



Với một giai cấp công nhân kém phát triển về số lượng và văn hoá, quyền bầu cử phổ thông có thể được coi như quyền lựa chọn “đao phủ”. Tuy nhiên, với sự phát triển về số lượng và kiến thức của giai cấp công nhân, nó trở thành phương tiện để biến những đại biểu của nhân dân từ chỗ là những người chủ của nhân dân thành những người đầy tớ thật sự của nhân dân. (Trích theo: Harry W. Laidler, History of Socialism, Thomas Y. Crowell Company, New York, 1968, tr. 251)



Bernstein đánh giá chuyên chính vô sản là một thuật ngữ lỗi thời, nếu muốn sử dụng nó thì phải tước bỏ ý nghĩa hiện hành và gán cho nó một cách giải thích khác nhằm làm giảm nhẹ ý nghĩa đó. Ông viết:



Chuyên chính của các giai cấp thuộc về một nền văn minh thấp hơn, và tạm gác qua một bên tính thiết thực và tính khả thi của nó, thuật ngữ đó chỉ có thể được coi là một sự thụt lùi, một di chứng của tổ tiên trong lĩnh vực chính trị (political atavism [4] ) (Trích theo: Harry W. Laidler, Sđd, tr. 252)



Coi chủ nghĩa xã hội là người thừa kế đích thực của chủ nghĩa tự do (liberalism), ông tin tưởng rằng sự phát triển của chủ nghĩa tự do sẽ tạo ra khả năng một sự quá độ hoà bình lên chủ nghĩa xã hội – một khả năng trước kia chưa hề có:



Chế độ phong kiến, với những tổ chức và hội đoàn (corporations) cứng nhắc của nó, cần phải bị phá huỷ ở hầu khắp mọi nơi bằng bạo lực. Những tổ chức tự do của xã hội hiện đại khác hẳn với những tổ chức nói trên chính ở chỗ chúng mềm dẻo và có khả năng thay đổi, phát triển. Không cần phải phá huỷ chúng, mà chỉ cần phát triển thêm một bước nữa. Để đạt được điều đó, chúng ta cần có tổ chức và hành động mạnh mẽ, nhưng không cần đến một nền chuyên chính cách mạng. (Trích theo: Harry W. Laidler, Sđd, tr. 253)



Trước mắt, theo Bernstein, Đảng dân chủ - xã hội phải trở thành một đảng mang tính chất cải cách, một đảng đấu tranh cho sự biến đổi xã hội bằng những phương tiện của một cuộc cải cách về dân chủ và kinh tế.



Mặc dù bị chính thức phê phán, ảnh hưởng của Bernstein ngày càng mở rộng, nhất là trong hàng ngũ những lãnh tụ công đoàn và trong giới trẻ.



Người đại diện cho phái mác-xít chính thống lúc đó là Karl Kautsky (1854-1938) đã kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Marx, phê phán kịch liệt những quan điểm của Bernstein. Nhưng Kautsky đã phê phán chủ nghĩa xét lại như thế nào?



Mặc dù nhấn mạnh rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể đạt được bằng một cuộc cách mạng chứ không phải bằng một chuỗi các biện pháp cải cách như Berstein đã nghĩ, nhưng Kautsky lại quan niệm cách mạng không nhất thiết phải là một cuộc biến động bằng bạo lực, mà là một hình thức biến đổi nào đó nhằm đưa giai cấp bị áp bức kiểm soát được chính quyền. Trong thực tế, Kautsky cho rằng đối với giai cấp công nhân, bạo lực là một vũ khí yếu ớt, không hiệu quả bằng những phương pháp hoà bình như: quyền tự do tổ chức, tự do báo chí và quyền phổ thông đầu phiếu. Những phương pháp hoà bình, bao gồm chế độ nghị viện, đình công, và tuyên truyền báo chí, bảo đảm được một cơ hội thành công lớn hơn trong những nước có trình độ dân chủ cao hơn, trong những tập thể có lòng tin vững chắc vào chính mình và vào lý tưởng của mình. Ông cũng thừa nhận tác dụng của những biện pháp cải cách như: công đoàn, hợp tác xã, pháp chế lao động, quốc hữu hoá một số ngành phục vụ công cộng. Ông viết:



Dân chủ đối với giai cấp vô sản cũng như ánh sáng và không khí đối với cơ thể; thiếu chúng giai cấp vô sản không thể phát triển quyền lực được. (Trích theo: Harry W. Laidler, Sđd, tr. 266)



Trong tác phẩm Cách mạng xã hội (Social Revolution), Kautsky mô tả một cách khái quát về viễn cảnh một nhà nước vô sản “một ngày sau thắng lợi của cách mạng”, đúng ra là một hay hai thập niên sau khi giai cấp vô sản nắm chính quyền. Ông đặt ưu tiên hàng đầu cho việc xoá bỏ mọi tàn dư của chế độ phong kiến: mở rộng quyền đầu phiếu phổ thông đến mọi cá nhân và thiết lập quyền tự do báo chí, tự do hội họp, nhà nước độc lập hoàn toàn đối với giáo hội, bãi bỏ quyền thừa kế, thiết lập quyền tự trị hoàn toàn đối với mọi cộng đồng cá nhân và bãi bỏ chủ nghĩa quân phiệt. Ngoài ra, ông còn nêu các giải pháp như: giải tán quân đội thường trực để thay bằng nhân dân tự vũ trang, cải cách chế độ thuế bằng cách đánh thuế thu nhập luỹ tiến và thuế tài sản, tăng thêm và cải thiện các trường học, nâng lương cho nhà giáo, mọi trẻ em đều được nuôi duỡng, ăn mặc tốt như nhau và được hưởng các phương tiện học tập như nhau nhưng giáo dục phải phù hợp với tâm tính đa dạng của trẻ,... (Harry W. Laidler, Sđd., tr. 269)



Điều đáng nói nhất là do ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan điểm xét lại đối với phong trào đương thời, cho nên trước năm 1914, những nhà dân chủ - xã hội lỗi lạc nhất – kể cả Kautsky, mặc dù về mặt chính thức vẫn còn đặt lòng tin vào chủ nghĩa Marx, nhưng trong hoạt động thực tiễn hàng ngày đã áp dụng những biện pháp cải cách xã hội mang tính chất thực tiễn, hoà bình như thể họ chấp nhận về bản chất những bài học của trường phái xét lại (Harry W. Laidler, Sđd., tr. 256).



Việc các nhà mác-xít chính thống ở Đức ngả dần sang lập trường của phái cải cách đã dẫn đến sự đoạn tuyệt về mặt lý luận giữa Rosa Luxemburg - đại biểu của cánh tả trong Đảng dân chủ - xã hội Đức, với Kautsky vào năm 1910 [5] .



Riêng V. I. Lenin thì trước năm 1914 chưa có mâu thuẫn quan trọng nào với Kautsky về mặt lý luận. Vốn là một người hâm mộ Karl Kautsky, Lenin chỉ bắt đầu mâu thuẫn với nhà lý luận mác-xít này trong thời gian chiến tranh thế giới lần I. Cuộc xung đột về lý luận này bộc lộ một cách đầy đủ nhất trong tác phẩm hàng đầu của Lenin là cuốn Nhà nước và cách mạng, được viết ngay trước cuộc Cách mạng tháng Mười Nga và được xuất bản vào năm 1918, sau khi cuộc cách mạng thành công. Mặc dù còn dở dang (chưa hoàn thành phần hai, nói về kinh nghiệm của những cuộc cách mạng ở Nga), nhưng tác phẩm này đã trình bày khá đầy đủ quan niệm của Lenin về vấn đề nhà nước.



Xét về thực chất, phần lớn những luận điểm Lenin trình bày trong tác phẩm chỉ là giải thích lại những quan điểm của Marx và Engels. Như ông đã viết ở đầu tác phẩm, mục đích của tác phẩm là “khôi phục học thuyết chân chính của Marx về nhà nước” nhằm chống lại sự xuyên tạc, “cải biến” chủ nghĩa Marx của các nhà tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và nhất là chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong phong trào công nhân thế giới (mà tiêu biểu là Karl Kautsky, lãnh tụ của Đảng dân chủ – xã hội Đức).



Trong tác phẩm này, Lenin coi tư tuởng cách mạng bạo lực là “nền móng của toàn bộ học thuyết của Mác và Ăng-ghen” (Nhà nước và cách mạng, sđd, tr. 35). Ông phê phán quan điểm của chủ nghĩa cơ hội, tức là “cái quan niệm mơ hồ về một sự thay đổi chậm chạp, đều đều, tuần tự, không có đột biến, không có bão táp, không có cách mạng” (Sđd, tr. 28).



Về chuyên chính vô sản, Lenin coi đây là tiêu chuẩn phân biệt những người cơ hội chủ nghĩa với những người mác-xít chân chính, vì những người cơ hội chỉ thừa nhận đấu tranh giai cấp mà thôi:



Kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là một người mác-xít, kẻ ấy có thể vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ tư tưởng tư sản và chính trị tư sản. Đóng khung chủ nghĩa Mác trong thuyết đấu tranh giai cấp là cắt xén, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thu nó lại thành cái mà giai cấp tư sản có thể tiếp nhận được. Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người mác-xít. Đó là điều khác nhau sâu sắc nhất giữa người mác-xít và người tiểu tư sản (và cả tư sản lớn) tầm thường. Chính phải dùng viên đá thử vàng ấy mà thử thách sự hiểu biết thực sự và sự thừa nhận thực sự chủ nghĩa Mác. (Sđd., tr. 55)



Về thái độ đối với bộ máy nhà nước cũ, như ta đã biết, sau Cách mạng 1848, Marx đã đặt vấn đề phải đập tan bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản. Nhưng trong “Thư gửi Ludwig Kugelman ngày 12.4.1871” (Tuyển tập, T. IV, tr. 547), Marx lại nói: “đó là điều kiện tiên quyết của mọi cuộc cách mạng nhân dân thật sự ở lục địa”. Điều đó có nghĩa là ngoài phạm vi của lục địa châu Âu, vẫn còn có những trường hợp ngoại lệ (như Anh, Mỹ). Giải thích lại đoạn văn đó, Lenin viết:



Vào năm 1871 điều ấy rất dễ hiểu, vì hồi bấy giờ nước Anh còn là kiểu mẫu của nước thuần tuý tư bản chủ nghĩa, nhưng không có chế độ quân phiệt và, trong một mức độ lớn, không có chế độ quan liêu. Vì vậy, Mác trừ nước Anh ra, ở đó cách mạng và ngay cả cách mạng nhân dân xem chừng thực hiện được và đã có thể thực hiện được, mà không cần có điều kiện tiên quyết là phá huỷ “bộ máy nhà nước sẵn có”.



Giờ đây, trong năm 1917, trong thời kỳ đại chiến đế quốc chủ nghĩa lần thứ nhất, sự giới hạn đó của Mác không còn tác dụng nữa. Lúc này nước Anh cũng như nước Mỹ (…) đã hoàn toàn rơi tuột vào cái vũng đầy bùn đẫm máu của toàn châu Âu với những cơ quan quân sự – quan liêu, những cơ quan này bắt tất thảy phải lệ thuộc vào nó và trấn áp hết thảy. Giờ đây ở Anh cũng như ở Mỹ, “điều kiện tiên quyết cho bất cứ cuộc cách mạng thật sự nhân dân nào” là đập tan, là phá huỷ “bộ máy nhà nước sẵn có”… (Sđd., tr.62)



Như vậy, việc đập tan, phá huỷ bộ máy nhà nước cũ trở thành quy luật chung cho tất cả các cuộc cách mạng vô sản trong thời đại mà Lenin gọi là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc (imperialism, impérialisme).



Về nội dung của chuyên chính vô sản, Lenin dựa vào những bài học mà Marx rút ra từ thực tiễn của Công xã Paris, và coi đó là những kinh nghiệm hoàn toàn có thể áp dụng được vào các cuộc cách mạng đương thời, nhất là vào trường hợp của nước Nga. Đó là những biện pháp như: xoá bỏ quân đội thường trực, xoá bỏ bộ máy công chức, thực hành chế độ tuyển cử và bãi miễn đối với mọi viên chức nhà nước kể cả hành pháp, lập pháp và tư pháp, trả lương cho viên chức nhà nước ngang với lương công nhân, v.v… Nhìn chung, Lenin muốn xoá bỏ chế độ đại nghị để thay bằng một nền dân chủ trực tiếp tương tự như chế độ dân chủ thời nguyên thuỷ. Ông đã dành nhiều trang để biện luận, mô tả tỉ mỉ những biện pháp đó, với hy vọng là đem áp dụng chúng vào trường hợp của nước Nga. Hình thức chính quyền vô sản tương tự như Công xã Paris, theo Lenin, chính là các Xô-viết (Soviets) đại biểu cho công nhân và binh sĩ, được hình thành trong cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917, nghĩa là lúc lật đổ Nga hoàng. [6]



Cuộc xung đột về mặt lý luận, tư tưởng giữa Lenin, đại diện cho phái cách mạng và Kautsky, đại diện cho phái cải cách, đã là tiền đề cho sự phân hoá của phong trào mác-xít nói riêng và phong trào xã hội chủ nghĩa nói chung: phái cách mạng trở thành những người cộng sản (Quốc tế III), tách khỏi phái cải cách tức những người dân chủ - xã hội (Quốc tế II). Sự phân hoá này có nguồn gốc sâu xa từ chính chủ nghĩa Marx. Trong một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề nhà nước, hai ông đã tạo ra những khái niệm hết sức hàm hồ, không rõ nghĩa, có thể giải thích theo nhiều hướng khác nhau.



Như chuyên chính vô sản chẳng hạn. Chuyên chính vô sản là chuyên chính của một giai cấp mang một sứ mệnh lịch sử, và theo dự kiến, giai cấp đó sẽ ngày càng chiếm đa số trong xã hội. Nhưng những nghịch lý chứa đựng trong bản thân khái niệm chuyên chính vô sản đã làm cho khái niệm trở nên hàm hồ, không rõ nghĩa. Vì vậy, Lenin và những người cộng sản hiểu chuyên chính vô sản nghiêng về phía chuyên chính, còn các nhà dân chủ - xã hội thì tuyên bố khái niệm đó đã lỗi thời hoặc tìm cách giải thích nó nghiêng về phía dân chủ.



Hoặc như vấn đề phương pháp cách mạng chẳng hạn. Lúc sinh thời, mặc dù tán dương con đường cách mạng bằng bạo lực, cả Marx và Engels luôn luôn dành ngoại lệ cho một số nước (nhất là các nước Anh, Mỹ,..), mà hai ông hy vọng là cách mạng vô sản có thể diễn ra bằng con đường hoà bình. Năm 1872, Marx đã phát biểu tại Hà Lan như sau:



Chúng tôi biết rằng cần phải chú ý đến những chế độ, phong tục và truyền thống của các nước khác nhau, và chúng tôi không phủ nhận rằng hiện có những nước như Mỹ, Anh - và nếu tôi hiểu biết rõ hơn những chế độ của các bạn thì có thể thêm vào đó cả Hà-lan nữa, - ở đây, công nhân có thể đạt tới mục đích của mình bằng phương pháp hoà bình. Nhưng nếu đúng là như thế đi nữa thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng trong đại đa số các nước trên lục địa, bạo lực vẫn phải là cái đòn bẩy của cuộc cách mạng của chúng ta; và có lúc sẽ phải dùng đến bạo lực để thiết lập một cách triệt để sự thống trị của lao động. (“Về Đại hội La Haye”; Tuyển tập, T. IV, tr. 210-211)



Sau khi Marx mất, Engels vẫn còn lặp lại quan điểm này. Năm 1891, khi phê phán cương lĩnh Erfurt của Đảng dân chủ - xã hội Đức, Engels đã viết:



Ta có thể quan niệm được rằng xã hội cũ có thể tiến lên xã hội mới một cách hoà bình, trong những nước ở đó cơ quan đại diện nhân dân tập trung tất cả quyền hành trong tay; ở đó Hiến pháp cho phép người ta muốn làm gì thì làm khi người ta được đa số nhân dân làm hậu thuẫn; trong những nước cộng hoà dân chủ như Pháp và Mỹ, trong những nước quân chủ như Anh, là những nước, ở đó ngày nào việc sắp chuộc lại triều vua cũng được đưa ra bàn cãi trên báo chí, ở đó triều đại ấy bất lực không chống lại được ý chí của nhân dân. (“Góp phần phê phán dự thảo cương lĩnh của Đảng dân chủ - xã hội 1891”, Tuyển tập, T. VI, tr. 497)



Cũng trong đoạn văn vừa trích, Engels không tán thành việc công bố quan điểm này ở Đức, là “nơi mà chính phủ hầu như nắm toàn bộ quyền lực, nơi mà Quốc hội cùng các cơ quan đại diện khác đều không có thực quyền” vì điều đó không cần thiết, và làm như thế là “lột chiếc lá nho che cho chế độ chuyên chế và đem thân thể của chính mình để che sự trần truồng của chế độ chuyên chế”. (Sđd, T. VI, tr. 497-498)



Nhưng thái độ của Engels đối với phong trào ở Đức đã thay đổi trong vài năm sau đó, do việc Đảng dân chủ - xã hội Đức nhờ vào quyền đầu phiếu phổ thông mà giành được số phiếu rất lớn trong các cuộc bầu cử. Phấn khởi trước thành quả của cuộc đấu tranh hợp pháp của đảng này, ông đã viết vào năm 1895 như sau:



Ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể trông cậy vào 2 triệu 25 vạn cử tri. Nếu tình hình đó cứ tiếp diễn như vậy thì từ nay cho đến cuối thế kỷ, chúng ta sẽ tranh thủ được bộ phận lớn nhất trong các tầng lớp trung gian trong xã hội, tức là những người tiểu tư sản và những người tiểu nông, và chúng ta sẽ lớn lên cho đến khi trở thành lực lượng quyết định ở trong nước, trước nó tất cả những lực lượng khác, dù muốn hay không, cũng đều phải chịu khuất phục. (…)



Lịch sử thế giới trớ trêu đã làm đảo lộn tất cả. Chúng ta, những “người cách mạng”, những “người lật đổ”, chúng ta phát triển bằng những biện pháp hợp pháp thì tốt hơn rất nhiều là bằng những thủ đoạn bất hợp pháp và sự lật đổ. (“Lời mở đầu cho tác phẩm của Karl Marx Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850”, Tuyển tập, T. VI, tr. 620)



Có thể hiểu đó là sự khuyến khích Đảng dân chủ - xã hội Đức đi vào con đường đấu tranh hợp pháp, sử dụng các biện pháp hoà bình.



Do chỗ Marx và Engels tự nhận lý thuyết của mình là chủ nghĩa xã hội khoa học, cho nên phái cải cách không ngần ngại sửa chữa, xét lại lý thuyết đó cho phù hợp với sự phát triển của tình hình. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà Bernstein, cha đẻ của chủ nghĩa xét lại, đã nhận xét rằng trong các tác phẩm của Marx, ông tìm thấy tính chất nhị nguyên (dualism), do chỗ các công trình này vừa nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, vừa nhằm minh chứng cho một lý thuyết được xác lập từ lâu - trước cả khi tiến hành việc nghiên cứu. Ông cho rằng trong hệ thống của Marx vẫn còn lại cặn bã của chủ nghĩa không tưởng (utopianism) [7] .



Ngày nay, xem xét lại các công trình của Marx và đem đối chiếu với thực tế lịch sử, chúng ta thấy nhận xét trên của Bernstein không phải là một ý kiến hoàn toàn thiếu căn cứ. Trong khi phê phán các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng tiền bối, do định kiến, do phạm phải sai lầm nghiêm trọng về phương pháp luận, Marx cũng trở thành một nhà không tưởng. Và vì ông tự nhận lý thuyết của mình là “chủ nghĩa xã hội khoa học”, ông đã trở thành nhà không tưởng gây nhiều tai ương cho nhân loại hơn bất cứ nhà không tưởng nào khác.



© 2005 talawas

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5454&rb=08



[1]Donald Sassoon, One Hundred Years of Socialism, Fontana Press, Harper Collins Publishers, London, 1997, tr. 651-654.

[2]"United Kingdom Labor", Microsoft® Encarta® Encyclopedia 2001. © 1993-2000

[3]Parliamentarianism, parlementarisme. Marx dùng danh từ này theo nghĩa rộng, nhằm để chỉ toàn bộ nền dân chủ hiện đại, bao gồm cả hai hình thức: chế độ nghị viện (parliamentary system, régime parlementaire) kiểu Anh và chế độ Tổng thống (presidential system, régime présidentiel) kiểu Mỹ.

[4]Atavism, atavisme: nguyên là một khái niệm sinh học dùng để chỉ sự xuất hiện trở lại một vài đặc điểm của tổ tiên đã biến mất trong các thế hệ trung gian.

[5]Rosa Luxemburg (1871-1919) là một nhà nữ cách mạng Đức gốc Ba Lan. Là một đại biểu của cánh tả trong Đảng dân chủ - xã hội Đức, bà bảo vệ lập trường cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa Marx. Mặc dù hướng về cách mạng Nga, bà vẫn phê phán Lenin và Đảng bolshevik về một số vấn đề như: chính sách nông nghiệp, quyền dân tộc tự quyết, và các biện pháp độc tài,… Luxemburg mặc dù là một gương mặt tiêu biểu cho phái cách mạng nhưng vẫn giữ vững lòng tin vào chế độ dân chủ và chống lại quan niệm tập trung dân chủ của Lenin (Encyclopædia Britannica 2000).

[6]Các Xô-viết ở Nga xuất hiện lần đầu trong cuộc Cách mạng năm 1905, nhưng vào thời đó chỉ bao gồm đại biểu của công nhân.

[7]Harry W. Laidler, Sđd., tr. 254.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét