Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Nhân chuyến đi thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng: Về Hội nghị cấp cao Việt Trung tại Thành Đô 3 và 4/9/1990

Mb: Nhân chuyến thăm TQ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ diễn ra trong tuần tới, cồng động mạng lại lôi lại chuyện cũ Thành Đô (Thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên-Trung Quốc) - nơi diễn ra cuộc tái ngộ lịch sử giữa những người Cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc. Phía Việt Nam gồm Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Nguyên Cố vấn Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng nhà nước Lê Đức Anh, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch (thân phục của Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh hiện nay). Về phía những người Cộng sản TQ gồm: Giang Trạch Dân, Lý Bằng và đại sứ TQ tại Việt Nam Trương Đức Duy. Đây là cuộc gặp gỡ ngoại giao có nhiều điều đáng nói. Đặc biệt êể giàn xếp được cuộc gặp gỡ này người ta thấy vai trò của những anh chàng môi giới chính trị đóng mác ngoại giao của TQ hết sức chuyên nghiệp. Qua sự kiện Thành Đô cho thấy TQ một trong những quốc gia bậc thầy về bang giao và ngoại giao. Trong suốt tiến trình sự kiện, người ta thấy VN nôn nóng muốn được giàn hòa với TQ, song TQ lại hết sức "đủng đỉnh" nhưng cũng không hề rời mắt tới các chính khác VN, thậm chí còn rất tỉnh táo khi đưa các chính khách VN vào "bẫy chính trị" là cho phái đoàn VN phải chấp nhận các điều khoản đồng ý thuộc vào TQ. Ngay trong cuộc gặp gỡ Thành đô, ông Phạm Văn Đồng một nhà ngoại giao kỳ cựu gần 90 tuổi đã phải cay đắng thốt lên: ta đã bị hớ, bị lừa tại Thành Đô.
Nhân chuyến đi thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng sắp tới đăng lại 2  bài viết một của nhà báo Trần Quang Thành với nhan đề: "Nhân chuyến đi thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng: Về Hội nghị cấp cao Việt Trung tại Thành Đô 3 và 4/9/1990" và một bài báo được dịch từ mạng nội bộ TQ: "Nội tình cuộc gặp gỡ Thành Đô của các nhà lãnh đạo Trung - Việt: Nguyễn Văn Linh bỏ qua Nguyễn Cơ Thạch gặp Giang Trạch Dân".

I .Nhân chuyến đi thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng: Về Hội nghị cấp cao Việt Trung tại Thành Đô 3 và 4/9/1990
 
Nhà báo Trần Quang Thành
 Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang (khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003) chưa được xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, nó cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam đương đại.

Tác giả làm việc ở Bộ Ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên 80-90 thé ký 20). Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lí do “sức khoẻ” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 

Hai chương trích dưới đây trong cuốn hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ là những thông tin rất quan trọng nói lên sự thật về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một giai đoạn khó khăn, đồng thời về những bất đồng trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung hai chương này nêu bật trách nhiệm nặng nề của các ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh vào đầu thập niên 1990 (lúc đó là Tổng bí thư và Bộ trưởng Quốc phòng) trong quan hệ với Bắc Kinh và việc giải quyết vấn đề Campuchia.

Vể cuộc gặp cắp cao Viêt – Trung ở Thành Đô diễn ra hai ngày 3 và 4/9/1990, trong hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ, ông Trần Quang Cơ viết : 

Cuộc gặp cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô : Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô (ông Phạm Văn Đồng - DLB chú thích). Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô. 

Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 – Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ. 

Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách: 

a. Tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong hơn 10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực hiện “4 hiện đại”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc kiên trì tranh thủ Mỹ, Nhật, phương Tây, đồng thời bình thường hoá quan hệ với Liên Xô. Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục tiêu chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ, Nhật và phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện quan hệ Mỹ-Xô tiến triển rất nhanh. Xô-Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay trong vấn đề Campuchia, vai trò Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô-Mỹ tiếp xúc trao đổi chặt chẽ về vấn đề Campuchia, cuộc gặp Sihanouk – Hun Xen ở Tokyo là do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý muốn của Trung Quốc). Phương Tây tiếp tục đòi Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải quyết vấn đề Campuchia trên cơ sở kiềm chế Khmer Đỏ. 

b. Chuyến đi Đông Nam Á của Lý Bằng (6-13.8.90) nằm trong yêu cầu chiến lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực hiện “4 hiện đại”, diễn ra trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây dựng ở Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính sách. Cuộc đi thăm của Lý đã bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại lý do bành trướng của Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước trong khu vực, ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với Việt Nam không còn phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc này nữa. 

c. Sau khi Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia, các nước phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo hướng không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình hình đó, Trung Quốc không muốn chậm chân. 

d. Về thời điểm : trong cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu Ước, P5 đã thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia (gồm các vấn đề: các lực lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai của Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn đề diệt chủng, chỉ nói Campuchia sẽ “không trở lại chính sách và hành động trong quá khứ”. Còn Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính phủ liên hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của LHQ. P5 thoả thuận lịch giải quyết vấn đề Campuchia: trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp các bên Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ, tiếp đó họp mở rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến khoảng tháng 10-11.90 họp uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để soạn thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại trưởng ký Hiệp định ; 15 nước trong Hội đồng Bảo An thông qua. Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung-Việt trong cái khung thời gian này. Tuy nhiên Bắc Kinh giấu không cho ta biết gì về những thoả thuận giữa họ và các ư­ớc lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ kín cuộc hẹn gặp ta ở Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo ngại khả năng đoàn kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.Ngày 30.8.90, Bộ Chính trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc. Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc, và hợp tác giữa Phnom Penh và Khmer Đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó Bộ Ngoại Giao đã trình bày đề án nêu rõ là rất ít khả năng thực hiện phương án này vì phương hướng chiến lược của Trung Quốc vẫn là tranh thủ phương Tây phục vụ “ 4 hiện đại ”. Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh: “Phải nói về hoà hợp dân tộc thực sự ở Campuchia. Nếu không có Pol Pot thì vẫn tiếp tục chiến tranh ”. Anh Võ Chí Công không đồng ý, nói: “Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp tác bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây”. 

Anh Thạch cảnh giác: “Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và Trung Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu công thức “ SNC 6+2+2+2” để nhấn rõ là có 4 bên Campuchia (trong đó Khmer đỏ là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng...” Sự thực sau này cho thấy Trung Quốc còn đòi cao hơn thế !Ngày 2.9.90, ba đồng chí lãnh đạo cao cấp của ta đến Thành Đô đúng hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà - Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn - Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng chú ý là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. 

Sau 2 ngày nói chuyện (3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là “Biên bản tóm tắt ” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia ; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn chứng), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả thuận, vấn đề nổi cộm nhất là điểm 5 về việc thành lập SNC. 

Lãnh đạo ta đã thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức “ 6+2+2+2+1 ” (phía Phnom Penh 6 người ; phía “3 phái” 7 người ; 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk) mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi cho Phnom Penh, với công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số người ngang nhau mà Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận ở Tokyo. 

Về sáng kiến “giải pháp Đỏ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo ta đưa ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lý Bằng đã bác đi: “Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với nhau để phát huy hơn nữa. Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần. Bốn bên Campuchia, xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là hai đảng cộng sản, có vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là ở Campuchia không chỉ có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ thì cô lập SNC, không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác dụng ở Campuchia ”. Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm: “Các nước phương Tây rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, họp với nhau bàn cái gì đây ? Vì vậy chúng tôi giữ kín chuyến đi này. Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta”. 

Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta? Ngay say khi ở Thành Đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang Phnom Penh thông báo lại với Bộ Chính trị Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung. Để thêm sức thuyết phục Phnom Penh nhận Thoả thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc”. Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lãnh đạo Campuchia, vẫn là: “Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải quyết”. Về “giải pháp Đỏ”, Phnom Penh nhận định: “Trung Quốc không muốn hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện “giải pháp Đỏ” vì “giải pháp Đỏ” trái với lợi ích của Trung Quốc ”. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn: “Ta nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó là “giải pháp Hồng”, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ Khmer Đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer Đỏ trở về… Ta đừng nói với Trung Quốc là làm “giải pháp Đỏ”, nhưng ta thực hiện “giải pháp Đỏ” ; có đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai lực lượng cộng sản”. 

Nguyễn văn Linh bồi thêm: “Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép Trung Quốc nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp Đỏ. 

"Theo báo cáo của đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia đối với ta từ sau Thành Đô có đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ý của ta trên nhiều việc. Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm: 

* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước; 

* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mồi” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao. 

* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.Ngày 7.9.90 Bộ chính trị đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt- Campuchia sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc thông báo lại lập trường của Campuchia ; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với Campuchia. Nếu có ai hỏi về công thức “6+2+2+2+1”, nói không biết.Nhưng Báo Bangkok Post ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai hoá bản Thoả thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk, thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng. Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số 4/10 (10.10.90) đăng bài Củ cà-rốt và cái gậy viết về cuộc gặp gỡ cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giữa Tổng Bí Thư Đảng và Thủ tướng hai nước, cho biết hai bên đã thoả thuân công thức “6+6+1” về việc lập SNC. Phía Việt Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai nước không dự họp cấp cao là đáng chú ý. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông Thạch là người có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối với Trung Quốc. Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch: “Trung Quốc đang tuyên truyền rộng rãi là lãnh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người, họ ký kết với lãnh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đã không thực hiện thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại còn xúi dục chính quyền Phnom Penh chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết điều kiện này đến điều kiện khác.” Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker. Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên Campuchia ở Bangkok vừa qua thất bại, Trung Quốc rất bất bình với lãnh đạo Việt Nam. Trung Quốc cho rằng lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về con số 13 thành viên của SNC nhưng lại nói với Phnom Penh là công thức đó là ý kiến riêng của Trung Quốc, đã không làm gì để thúc đẩy Phnom Penh thực hiện thoả thuận giữa cấp cao hai nước. Không thể tin được ngay cả lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao Việt Nam. Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam là Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH chống âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH cũng như đề nghị của Việt Nam về giải pháp dựa trên liên minh giữa Phnom Penh và Pol Pot.Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24.10.90, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10.9.90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Phnom Penh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Phnom Penh đã có “ một thái độ thiếu hợp tác”. 

Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp Đỏ”. 

Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi Bộ Chính trị họp (15-17.5.91) thảo luận bản dự thảo Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới, cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại Giao có câu “có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”. Cuộc họp này đầy đủ Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, các cố vấn Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình. 

Anh Tô nói: “Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu sắc thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì tự kiểm điểm. Tôi ân hận là ở hai chỗ. Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng trình bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói: tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng... Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “consensus” (nhất trí), còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì ta có thể có cách bàn thêm với họ. Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thoả thuận, các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời Tổng Bí Thư, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ta sang gặp Tổng Bí Thư, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của Bạn Campuchia, rất gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho ta là làm sau lưng, có hại cho người ta.” Anh Linh: “Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.” Anh Thạch: “Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Phnom Penh. Hun Xen nói là trong biên bản viết là “hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1” nhưng băng ghi âm lại ghi rõ anh Linh nói là “ không có vấn đề gì ”. 

Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu. Tại Tokyo tháng 6.90, Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận thành phần SNC gồm hai bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang Phnom Penh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc consensus trong SNC, anh Hun Xen nói riêng với tôi : chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng Campuchia bị Việt nam và Trung Quốc ép. Như vậy, dù là consensus cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là Phnom Penh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô và nói với họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…” Hôm sau, Bộ Chính trị họp tiếp, anh Mười nói: “Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hun Xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thanh Đô thì tốt hơn…” Anh Tô: “Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào ? Ở Thành Đô, điều ta làm có thể chứng minh được nhưng Cam-puchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận là về sau này sẽ để lại hậu quả.” Anh Mười : “Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Ban Campuchia nghĩ gì về ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của bạn.” Anh Thạch: “Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus (nguyên tắc nhất trí)” . 

Anh Võ Văn Kiệt : “Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.” Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.” Thoả thuận Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Phnom Penh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày 28.2.91, Hun Xen phát biểu: “  Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp. Chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được”. Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Phnom Penh, ngày 28.9.90, Hun Xen đã có những ý khá mạnh về thoả thuận Thành Đô: “Khi gặp Sok An ở Bangkok hôm 17.9, Trung Quốc doạ và đòi SOC phải công nhận công thức mà Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời Trung Quốc là ý này là của Việt Nam không phải của Phnom Penh.” Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố. Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc Mỹ, thực hiện “ giải pháp Đỏ” ở Campuchia là không phù hợp với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị mà còn gây khó khăn với ta trong việc đa dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia. Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.Cùng với việc ta thúc ép Phnom Penh đi vào “giải pháp Đỏ”, việc ta thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ với ta với Campuchia và Lào.” 

Trần Quang Cơ 


II. Nội tình cuộc gặp gỡ Thành Đô của các nhà lãnh đạo Trung - Việt: Nguyễn Văn Linh bỏ qua Nguyễn Cơ Thạch gặp Giang Trạch Dân

Lý Nguyên dịch - Bài viết này cho biết một số chi tiết dẫn đến bước ngoặt trong quan hệ Việt – Trung nửa cuối thập niên 80, sau hơn một thập kỉ đối đầu. Đây là cái nhìn từ phía Trung Quốc, công bố trên báo chí Trung Quốc. Chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả như một luồng thông tin tham khảo (talawas).



Sau khi hai nước Trung - Việt đối lập 13 năm, một cuộc gặp gỡ có tính lịch sử - cuộc gặp gỡ Thành Đô - đã phá vỡ tảng băng cứng ngoại giao, tiến một bước chắc chắn thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước. 

Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung - Việt xuất hiện ánh bình minh 

Năm 1975, sau khi chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, Lê Duẩn và một số người lãnh đạo Việt Nam lúc đó không kịp thời chữa chạy vết thương do chiến tranh mang lại mà đã triệt để xa rời đường lối của Hồ Chí Minh; đối nội cưỡng bức thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa quá tả tại miền Nam, đối ngoại cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô, thực hiện chủ nghĩa bá quyền khu vực. Dưới dự dẫn dắt của đường lối đó, một mặt Việt Nam chống Trung Quốc, một mặt tăng cường khống chế Lào rồi phát động xâm lược vũ trang Cămpuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam đến bên bờ của sự tan vỡ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa bao giờ có. 

Tháng 7 năm 1986, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lâm bệnh qua đời. Tháng 12 cùng năm, Nguyễn Văn Linh được Đại hội lần thứ sáu ĐCSVN bầu làm Tổng Bí thư. Trong những năm 60 thời kỳ chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam, Nguyễn Văn Linh là thành viên của Trung ương Cục miền Nam của ĐCSVN, đã từng nhiều lần bí mật sang thăm Trung Quốc; Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cho rằng ông là người kế thừa có hy vọng nhất của Việt Nam. Sau khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành đường lối đối nội, đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo lúc đó, đã từng bị chèn ép. Khi giữ chức Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh nhanh chóng uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng, đối với Việt Nam, hai nhiệm vụ cấp bách đương thời là phải rút quân đội khỏi Cămpuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng do thân tín của Tổng Bí thư khóa trước, ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch nắm quyền tại Bộ Ngoại giao, tiếp tục làm việc theo tư duy của Lê Duẩn, trăm phương ngàn kế quấy rối và ngăn cản bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Còn Nguyễn Văn Linh với tư cách là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, trong tầng nấc quyết sách trung ương còn chưa có gốc rễ sâu chắc, một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hắc búa và đau đầu mà lại cần phải giải quyết. 

Kaysone thăm dò đường, Nguyễn Văn Linh gặp Trương Đức Duy 

Tháng 10 năm 1989, Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Cách mạng Nhân dân Lào kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào thăm Trung Quốc. Trước yêu cầu nhiều lần của ông, Trung Quốc bàn luận quyết định mời Đặng Tiểu Bình hội kiến ngắn, có tính lễ tân. Không ngờ hai nhà lãnh đạo đã có cuộc nói chuyện dài bốn mươi phút, hơn nữa còn bàn tới những vấn đề thực chất vô cùng quan trọng. 

Kaysone thành khẩn thừa nhận, hơn mười năm qua quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường, là do chịu “ảnh hưởng bên ngoài”, lần thăm Trung Quốc này là tiêu chí hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai đảng, hai nước. Đồng thời Kaysone còn chuyển lời hỏi thăm Đặng Tiểu Bình của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng mời ông thăm Trung Quốc. 

Đặng Tiểu Bình cũng nhờ Kaysone chuyển lời hỏi thăm của ông tới Nguyễn Văn Linh đồng thời nói, hy vọng trước khi ông nghỉ hưu hoặc nghỉ hưu không lâu vấn đề Cămpuchia có thể được giải quyết, quan hệ Trung - Việt được khôi phục bình thường. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh, Việt Nam phải rút hết, rút triệt để quân đội khỏi Cămpuchia. Ông đề nghi Kaysone chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu xa: “Nguyễn Cơ Thạch, con người này thích giở trò vặt.” 

Trên đường về nước Kaysone dừng lại thời gian ngắn tại Việt Nam, chuyển tới Nguyễn Văn Linh những lời của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh càng có thể hội thiết thân về việc “giở trò vặt” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông ý thức được, dù Đặng Tiểu Bình chỉ chuyển lời, nhưng vẫn chưa đưa ra lời mời ông thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm thế nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông phải giải quyết gấp. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, dưới sự cố gắng của nhiều phía, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, tại phòng khách Trung ương ĐCSVN. Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn không giống luận điệu cũ chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. Dự đoán dụng ý để Nguyễn Cơ Thạch tháp tùng hội kiến rất có khả năng là để ông ta trực tiếp nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư đã nói những gì, cũng có thể lúc đó đối với ông ta vẫn còn một tia hy vọng, để cho ông ta có một cơ hội thay đổi cách làm. Tuy nhiên do có mặt Nguyễn Cơ Thạch nên Nguyễn Văn Linh cũng không nói hết ý. 

Sau khi kết thúc hội kiến, Trương Đức Duy lập tức báo cáo tỉ mỉ nội dung nói chuyện của Nguyễn Văn Linh về Trung Quốc, nhanh chóng nhận được trả lời, vẫn là yêu cầu Việt Nam phải nhanh chóng rút quân khỏi Cămpuchia, đồng thời giải quyết tốt vấn đề liên hiệp sau khi rút quân, hai bên đối lập Cămpuchia, tức chính quyền Phnom Penh với lực lượng ba phái chống đối, sau đó sẽ dần dần từng bước và sắp xếp rõ ràng rành mạch cuộc gặp gỡ người lãnh đạo hai nước. 

Nhân sĩ bí mật xuất hiện trước sứ quán đưa mật thư 

Sáng ngày 16 tháng 8 năm 1990, một quan chức Viện Khoa học Xã hội Việt Nam họ Hoàng (con trai Hoàng Văn Hoan) đến Đại sứ quán Trung Quốc gặp Trương Đức Duy và đưa một mật thư, rồi tiện thể nhắn thư miệng của Nguyễn Văn Linh: ông quyết bỏ qua Nguyễn Cơ Thạch, trực tiếp gặp người lãnh đạo Trung Quốc. 

Tối ngày 19 tháng 8, sứ quán nhận được trả lời từ trong nước. Trong nước chỉ thị Trương Đức Duy tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người đáng tin cậy bên cạnh Nguyễn Văn Linh, đề xuất đại sứ muốn một ngày gần đây một mình gặp Nguyễn Văn Linh để trực tiếp hiểu được ý đồ chân thực của Nguyễn, lập tức báo cáo kết quả về Bộ. 

Thế là Trương Đức Duy quyết định thông qua kênh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Lê Đức Anh thử xem sao. 8 giờ sáng ngày 21, Trương Đức Duy ngồi trên một chiếc ôtô du lịch không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Trương Đức Duy đi thẳng vào vấn đề, nói vắn tắt những điểm chính lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mà hôm kia Hoàng Nhật Tân đã chuyển tới ông ta, biểu thị bản thân mình rất muốn trực tiếp nghe ý kiến của Tổng Bí thư, mong Lê Đức Anh giúp đỡ liên hệ. Lê biểu thị sẽ lập tức làm ngay. Ngay chiều hôm đó, Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam khẩn cấp nói với tùy viên quân sự Trung Quốc tại Việt Nam là Triệu Nhuệ rằng: 7 giờ rưỡi sáng ngày 22, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Trương Đức Duy tại Nhà khách Bộ Quốc phong, cả hai bên đều không mang phiên dịch, kiến nghị Trương Đức Duy đổi ngồi một xe khác, không cắm quốc kỳ. Sau khi trở về sứ quán, tùy viên quân sự Triệu lập tức báo cáo với Trương Đức Duy. 

Cuộc gặp gỡ bí mật Thành Đô 

Sau khi biết được ý đồ chân thực của Nguyễn Văn Linh, Trương Đức Duy lập tức báo cáo nội dung nói chuyện của ông về trong nước. Chiều ngày 28 tháng 8, sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Trương Đức Duy chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9 năm 1990, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng cùng đi. Do Á vận Hội sắp cử hành ở Bắc Kinh, để tiện bảo mật, nên sắp xếp địa điểm hội đàm tại Thành Đô, Tứ Xuyên. 

Qua sự sắp xếp của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều ngày 29, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã hội kiến Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trương Đức Duy chuyển lời mời thăm nội bộ Trung Quốc của Giang Trạch Dân và Lý Bằng tới Nguyễn và Đỗ. Nguyễn và Đỗ biểu thị tiếp nhận lời mời, đồng ý thời gian và địa điểm do phía Trung Quốc đề xuất, đồng thời nói sẽ báo ngay với Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định họ tên những người cùng đi, bắt tay chuẩn bị công việc. 

Ngày 30, Trung Quốc thông báo cho đại sứ quán sắp xếp đại thể chương trình làm việc, tức sáng ngày 3 tháng 9 chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ chiều đến Thành Đô, buổi chiều người lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mời tiệc. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Qua thỉnh thị và được đồng ý, Trương Đức Duy sẽ tháp tùng chuyên cơ Việt Nam đến Thành Đô, tham dự hội đàm. 

Sau khi từ Thành Đô trở về, Trương Đức Duy nói, lãnh đạo hai nước trong gặp gỡ chủ yếu thảo luận vấn đề giải quyết chính trị xung đột Cămpuchia như thế nào và vấn đề khôi phục quan hệ bình thường Trung - Việt. Về vấn đề Cămpuchia, hai bên chú trọng bàn sau khi Việt Nam rút quân, tổ chức thành lập Ủy ban Tối cao Quyền lực Lâm thời Cămpuchia, tức phương án phân phối quyền lực. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này do 13 đại biểu tổ thành, ngoài hoàng thân Sihanouk ra, chính quyền Phnom Penh có 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối do Dân chủ Cămpuchia (Khmer Đỏ), Rananit và Son Sann, ba phái mỗi phái hai đại biểu, cộng là 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh biểu thị có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân hoàng thân Sihanouk cũng thuộc về lực lượng chống đối, như thế là tỷ lệ đại biểu hai bên là 6 trên 7, lực lượng chống đối nhiều hơn một ghế, dự đoán phía Phnom Penh tiếp nhận sẽ có khó khăn; Phạm Văn Đồng nói phương án của phía Trung Quốc vừa không công bằng cũng vừa không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý theo phương án do phía Trung Quốc đề xuất làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. 

Về quan hệ Trung - Việt, hai bên đều giữ thái độ hướng về phía trước, không lật lại nợ cũ. Sau khi kết thúc gặp gỡ, những người lãnh đạo hai nước ký “Kỷ yếu hội đàm”. Với suy nghĩ sâu xa, Giang Trạch Dân trích dẫn hai câu thơ của nhà thơ Giang Vĩnh đời nhà Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại; tương kiến nhất tiếu mân ân cừu” (dịch nghĩa: qua hết sóng gió anh em vẫn còn; gặp nhau cười một cái [là] quên ân oán). Tối hôm đó Nguyễn Văn Linh cũng xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền; oán hận khoảnh khắc hóa vân yên; tái tương phùng thời tiếu nhan khai; thiên tải tình nghị hựu trùng kiến” (tạm dịch nghĩa -vì không có nguyên bản: anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ, trong khoảnh khắc oán hận biến thành mây khói; gặp lại nhau cười rạng rỡ, tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại). 

Một năm sau gặp gỡ Thành Đô, tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư mới của ĐCSVN Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mới Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Người lãnh đạo hai nước công bố tuyên bố chung, tuyên bố quan hệ Trung - Việt bình thường hóa. Tháng 2 năm 1999, người lãnh đạo Trung Việt công bố “Tuyên bố chung”, xác định khuôn khổ phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói ngắn gọn là 16 chữ “ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện”

Lý Nguyên dịch
Bản tiếng Việt © 2008 talawas 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét