Tác giả: Alexei Yurchak
Người dịch: Lã Nguyên
Trong suốt chiều dài lịch sử của Liên Xô, Lénine là biểu tượng cơ bản cho tính chính thống của hệ tư tưởng xô-viết và là cái ô lập trường dùng để giương lên trong các diễn ngôn tư tưởng. Nói cách khác, những phát ngôn tư tưởng khi đã chọn được tiên đề khởi phát là sự đúng đắn và tính hiển nhiên của tư tưởng Lénine thì không ai có quyền nghi ngờ các phát ngôn ấy 1. Bởi vậy, mọi sự cải cách và thay đổi trong hệ thống xô-viết đều được thực hiện dưới ngọn cờ khắc phục tình trạng xuyên tạc Lénine để trở về với tiếng nói của Lénine đích thực.
Công cuộc cải tổ đã được bắt đầu bằng nhiệm vụ như thế. Nhưng vào năm 1990, cách trình bày về nhiệm vụ này trên báo chí Đảng đã có sự thay đổi. Nếu trước kia sự xuyên tạc tư tưởng Lénine thường được gắn với những thời kì nhất định (thời Staline hoặc thời Brejinhev), thì bây giờ người ta nghĩ rằng, trong toàn bộ lịch sử xô - viết, tư tưởng của Lénine lúc nào cũng bị xuyên tạc. Rốt cuộc, mọi phát biểu của Lénine được lưu trữ trong các nguồn tài liệu thời xô - viết đều bị nghi ngờ là nguỵ tạo, không chính thức. Sự thay đổi tưởng như chẳng mấy quan trọng trong diễn ngôn trên báo chí Đảng làm nẩy sinh một nghịch lí: một mặt, loại diễn ngôn này tuyên bố nhiệm vụ chính của công cuộc cải tổ là trở về với Lénine đích thực, mặt khác, nó lại bảo, không thể biết Lénine đích thực là thế nào.
Một bài báo điển hình hồi đầu năm 1990 in trên tạp chí “Cộng sản”, cơ quan lí luận của Ban Chấp hành Trung ương, được mở đầu bằng công thức quen thuộc: nhiệm vụ quan trọng của công cuộc cải tổ là “bóc trần sự xuyên tạc của Staline, làm trong sạch chủ nghĩa xã hội, trả lại cho chủ nghĩa xã hội những lí tưởng của Marx và Lénine, cả khối óc và trái tim đã bị Staline tước đoạt…”2. Nhưng ở đoạn tiếp theo, nhiệm vụ của cải tổ được bài báo trình bày có một chút khác đi, và chỗ khác đi ấy là công cuộc cải tổ phải “…đi theo con đường thực tế, chứ không phải chủ nghĩa giáo điều, làm cho chủ nghĩa xã hội chan chứa một nội dung mới, nội dung trước kia chưa từng biết”3. Quay về với lí tưởng của Marx và Lénine là tiến tới chỗ chưa biết! Sự xuất hiện của mâu thuẫn này trong diễn ngôn vào năm 1990 của Đảng tuy chỉ là một trong vô số các sự kiện trọng đại thời ấy, nhưng nó có vai trò vô cùng quan trọng. Nó đẩy nhanh quá trình xoá bỏ một cách quyết liệt nguyên tắc chính thống là điểm tựa của hệ tư tưởng xô - viết và làm cho cuộc khủng hoảng không gì có thể cứu vãn của Đảng cùng toàn bộ hệ thống Đảng xích lại gần hơn.
Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung xem xét quá trình ấy đã bắt đầu và kết thúc như thế nào trong năm 1990.
1.Nếu đã thừa nhận trong suốt chiều dài lịch sử xô - viết lời nói và tư tưởng của Lénine lúc nào cũng bị xuyên tạc thì nhiệm vụ hàng đầu bây giờ là phải làm sao để xác định được Lénine đích thực, Lénine chưa bị xuyên tạc là cái gì. Muốn làm được điều đó, trước tiên lại phải phân tích xem, lời nói của lãnh tụ đã bị xuyên tạc bằng cách nào, nguyên nhân dẫn tới sự xuyên tạc ấy là ở đâu. Vào mùa xuân năm 1990, trong một cuộc tranh luận về vấn đề này, nhiều lí luận gia của đảng đã phát hiện ra, rằng người diễn giải, người thuật chuyện, các biên tập viên, ai cũng có khả năng xuyên tạc Lénine, - người này thì do không hiểu, người kia do kính yêu lãnh tụ thái quá, kẻ khác lại do ác ý…Rốt cuộc, các văn bản thuật lại lời Lénine của những người giời ơi đất hỡi nào đó nhiều khi được giải thích như là lời do chính Lénine đã nói ra. Tạp chí “Cộng sản” phát hiện rằng, “những quan điểm, những ý kiến, những phát ngôn rất khác nhau của các tác giả hồi ức” về Lénine đều được tiếp nhận như “những quan điểm có tính nguyên tắc của bản thân Lénine”4. Chẳng hạn, tạp chí nói tiếp, mặc dù trong ấn phẩm bàn về đường lối văn hoá của Đảng mà ai cũng biết, Klara Tzetkin chỉ kể lại cuộc toạ đàm của mình với Lénine, nhưng câu chuyện do bà thuật lại thường được trích dẫn “tựa như những lời ấy chính là do Lénine viết ra”. Chẳng những thế, “nhiều năm qua chúng ta đã sử dụng một bản dịch không thể xem là mẫu mực”. Trong trường hợp này, tư tưởng và lời nói của Lénine đã bị xuyên tạc hai lần: chúng được kể lại không chính xác và dịch lại cũng không chính xác. Đấy là nhận xét về hồi ức của một chiến hữu gần gũi nhất của Lénine. Vậy thì còn biết nói gì đây về những người đã chép lại và chỉnh sửa lời nói của Lénine sao cho phù hợp với những toan tính về lợi ích chính trị trong những điều kiện của một giai đoạn lịch sử cụ thể. Tạp chí “Cộng sản” nêu câu hỏi: “Chả lẽ chưa đến lúc phải xem xét thật kĩ lưỡng?”, tức là, - chả lẽ chưa đến lúc phải kiểm tra lại bản gốc những lời nói của Lénine để cuối cùng có thể tìm ra tiếng nói của Lénine đích thực? Để đạt được mục đích ấy, tạp chí đề nghị không dừng lại ở việc tu chính những lời phát biểu riêng lẻ, mà phải tiến hành “tổng kiểm tra toàn bộ văn bản, băng ghi âm và lời giải thích” của lãnh tụ5.
2.Nhưng ngay lập tức người ta hiểu ra, rằng dẫu có tiến hành tổng kiểm tra thì cũng chẳng giải quyết được chuyện gì. Lời nói của lãnh tụ bị xuyên tạc, nguyên nhân đâu chỉ vì người ta thuật lại, hay giải thích thiếu chính xác, mà chủ yếu vì trong lịch sử xô - viết, hình ảnh lãnh tụ đã bị quy phạm hoá, thần thánh hoá. Theo đó, mọi phát ngôn của lãnh tụ cũng được quy phạm hoá - lời nói thường ngày hoá thành khuôn vàng thước ngọc. Diễn ngôn của Lénine có vẻ như bị “đóng băng”, không còn khả năng phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử. “Với chúng ta, Lénine vẫn cứ là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thế kỉ XX”. Trong lễ kỉ niệm ngày sinh Lénine lần thứ 120, tháng tư, năm 1990, sau khi mở đầu bài diễn văn bằng những lời trọng thể như thế, Gorbachev lập tức nói thêm: “…Chúng ta nhất thiết phải nhận thức lại về Lénine, về trước tác lí luận và chính trị của Người, đồng thời phải tìm cách thoát khỏi cả sự xuyên tạc, lẫn sự thần thánh hoá những kết luận của Lénine. <…> Đã đến lúc cần chấm dứt kiểu sử dụng tên tuổi và hình ảnh Lénine một cách mù quáng, thiếu suy nghĩ giống như những kẻ đã biến Lénine thành bức “tượng thánh”6. Do thánh kinh được tạo ra trên cơ sở tư tưởng Lénine, - gọi là chủ nghĩa Lénine,- cho nên trở về với Lénine đích thực, thực chất là khước từ chủ nghĩa Lénine. Nghe mới báng bổ làm sao! Để làm dịu những lời nói có vẻ như vụng về, Gorbachev giải thích, rằng thuật ngữ “chủ nghĩa Lénine” là do bọn Melsevich bịa ra để chế giễu tư tưởng của lãnh tụ 7.
Các lí luận gia của Đảng tuyên bố, rằng khác với Lénine bị thần thánh hoá, Lénine đích thật thường thay đổi ý kiến và sửa chữa sai lầm khi hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Cho nên, tiếng nói của Lénine cũng phát triển, không đứng yên một chỗ. Xuất phát từ quan điểm như thế, mùa xuân năm ấy, trên tạp chí “Cộng sản”, Alesandre Jakoplev - lí luận gia của Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, “tổng chỉ huy cải tổ”- viết rằng, không nên tìm Lénine trong những quan điểm cụ thể, mà phải tìm ở khả năng thay đổi những quan điểm ấy sao cho phù hợp với hoàn cảnh. Jakoplev giải thích: “Với cá nhân tôi, Lénine vĩ đại vì khi cuộc sống yêu cầu, Người bao giờ cũng biết xem xét lại các quan điểm của mình”8. Hai tác giả khác của tạp chí “Cộng sản” còn quả quyết, rằng Lénine thường vận dụng kinh nghiệm thực tiễn của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ để sửa chữa sai lầm của bản thân, mà còn sửa chữa cả những sai lầm lí luận của Marx và Engels 9.
Từ những lời tuyên bố được đưa ra vào mùa xuân năm 1990, tất yếu sẽ nảy sinh một kết luận hiển nhiên: vì thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ vỏn vẹn có mấy năm, do chỉ nắm vững và chỉ dựa vào kinh nghiệm của thực tiễn ấy, Lénine không thể sửa chữa tất cả sai lầm và thay đổi tất cả quan điểm của mình. Cho nên, tạp chí “Cộng sản” bình luận, những quan điểm sai lầm chưa được sửa chữa trong di sản của Lénine và di sản của các vị kinh điển vẫn tiếp tục khiến chúng ta phạm sai lầm cho đến tận hôm nay. “Chừng nào tư tưởng chưa có khả năng tranh luận với chính mình, chưa được chỉnh sửa cho đúng, chừng ấy, chúng ta vẫn chưa thể khám phá và thấu hiểu cơ chế của sai lầm trên bình diện nhận thức luận...”10.
Bởi vậy, vào đầu năm 1990, trong diễn ngôn của Đảng, người ta thường trình bày một tư tưởng thế này: nhiệm vụ trở về với Lénine đích thực rộng lớn hơn rất nhiều lần so với việc kiểm tra các văn bản để tìm bản gốc và xác định độ chính xác. Chẳng những thế, còn cần phải có cách cách tiếp cận sáng tạo đối với lời nói và tư tưởng của Lénine. Phải làm sao để lời nói và tư tưởng của Lénine có khả năng phát triển, thay đổi, tìm được những ý nghĩa mới mẻ phù hợp với ngày hôm nay. Nói cách khác, các lí luận gia của Đảng cần phải học cách bổ sung, sửa chữa các văn bản của Lénine mà không cần dựa vào Lénine, - tức là sửa chữa, bổ sung sao cho giống hệt như Lénine tự làm, nếu như Lénine còn sống...
PHẦN 2: MIKHAIL GORBACHIOP VÀ NGƯỜI NGA ĐÃ HẠ BỆ LENIN NHƯ THẾ NÀO ? ( Phần kết )
Nhân vật người dẫn chuyện trong phim chính là đạo diễn Govorukhin. Ông lui tới nhiều cơ quan lưu trữ, xem đi xem lại nhiều cuốn phim thời sự, trích dẫn nhiều tư liệu mật. Ông nhấn mạnh, cả hai gia tộc đều có gốc rễ phức tạp, không thuần Nga. Gia tộc Sa hoàng có nguồn cội từ Tây Âu: “Chảy trong huyết quản của tất cả Sa hoàng, bắt đầu từ Elizabet đệ Nhất, là dòng máu Đức”. Riêng huyết quản của Nicolai còn có cả dòng máu Đan Mạch. Thái hậu Maria Fedorovna, mẫu hậu của ông là công chúa Đan Mạch. Đây là Sa hoàng Nicolai và người anh em thúc bá, Hoàng đế vương quốc Anh George V (cho xem ảnh). Hoàng hậu Alice - Aleksandra Fedorovna - Hessen Darmstad là công chúa nước Đức được giáo dục trong cung đình vương quốc Anh”32. Đạo diễn nói tiếp, mặc dù có nguồn gốc xuất thân như thế, nhưng mọi thành viên trong gia tộc của Sa hoàng, xét từ bản chất văn hoá và tôn giáo, đều là người Nga đích thực. Hoàng hậu Aleksandra Fedorovna tự nguyện gia nhập Chính thống giáo, cự tuyệt dạy tiếng Đức cho các hoàng tử, công chúa, thậm chí chỉ tuyển các nhũ mẫu là thường dân Nga để cho họ bú mớm, đọc truyện cổ tích Nga cho họ nghe, dạy họ nói thứ tiếng Nga trong sáng, giản dị.
Sau đó, đạo diễn chuyển qua gia tộc Lénine. Ngồi trong Viện Lưu trữ Saint-Peterburg, đạo diễn kể lại “nguồn gốc sắc tộc của Lénine trải qua nhiều năm bị bưng bít trong bí mật. Ta hiểu vì sao một người cộng sản chính hiệu cứ giả câm giả điếc như thế. Theo đường cha, đây là Ilia Nicolaevich (cho xem ảnh): Bà của Lénine, Anna Smirnova là người Kanmức, ông của Lénine, Nicolai Ulianin là người Tzuvas. Đường mẹ còn rắc rối hơn nhiều. Đây là Maria Aleksandrovna (cho xem ảnh). Bà của Lénine, Anna Grusorb là người Đức có pha trộn dòng máu Thuỵ Điển. Những kẻ bài Do Thái, xin hãy chú ý, ông của Lénine, Aleksandr Blank chính là người Do Thái đấy. Quyển sổ ghi chép trước mắt các bạn đây là của các nhân viên Bộ Y tế. Mọi người đều biết, ông của Lénine, Aleksandr Blank từng làm việc ở đây - ông ta từng tốt nghiệp Viện Hàn lâm Y học. Các trang từ 520 đến 523 đã bị thất lạc. Chúng tôi phải mất một năm rưỡi mới tìm thấy những trang ấy”33.
Mãi tới năm 1991, sau thất bại của vụ bạo động tháng Tám, tư liệu của Cục Lưu trữ quốc gia Đảng Cộng sản Liên Xô được bạch hoá, Govorukhin mới tìm thấy những trang thất lạc ấy. Ngồi ở một gian trong toà nhà của Cục Lưu trữ, đạo diễn kể tiếp câu chuyện của mình: “Chính ở đây chúng tôi đã tìm thấy những tài liệu mà người ta đã xé trong Viện Lưu trữ lịch sử tại Saint - Peterburg. Điều bí mật khủng khiếp mà Đảng muốn dấu các đảng viên của mình là gì? Đấy chính là tài liệu kể lại ngọn ngành việc những người thuộc dòng họ Blank đã từ bỏ gốc Do Thái để chịu lễ rửa tội của Chính thống giáo. Xin hãy đọc: “Thông báo về các học sinh thuộc Viện Y học - Giải phẫu Hoàng gia, những đứa trẻ Do Thái đã chịu lễ rửa tội là Dmitri và Aleksandr họ nhà Blank. Những học sinh mang họ Blank thuộc thành phần tiểu thị dân ở tỉnh Cựu Konstantinov này là con cái của một người Do Thái tên là Mosk Blank”. Hoá ra tất cả bí mật là như thế. Govorukhin thốt lên một câu đầy ý nghĩa rồi kết luận: - Hai anh em nhà Blank là Abel và Izrail - họ đã chịu lễ rửa tội dưới hai cái tên là Dmitri và Aleksandr - họ bắt buộc phải chịu lễ rửa tội của Chính thống giáo (Govorukhin nhấn mạnh chữ “bắt buộc”) vì các trường đại học không tiếp nhận người Do Thái”34.
Kết luận không hề dấu diếm toát lên từ bộ phim là thế này: mặc dù dòng tộc phức tạp, nhưng các thành viên trong gia đình Sa hoàng đều có thể xem là những người Nga, chẳng những thế họ có gốc rễ từ thành phần ưu tú của châu Âu; những người sinh ra chưa phải là chiên của Chúa thì sau đó họ hoàn toàn tự nguyện tiếp nhận Chính thống giáo. Chuyện về các thành viên trong gia tộc Lénine có phần phức tạp hơn. Trong nguồn gốc sắc tộc của họ có nhiều sự thật “láu cá” bị che dấu: một bộ phận tổ tiên Lénine đã mạo nhận là người Nga, trong khi thực chất họ là người Kanmức, Tzuvas và người Đức có “pha trộn với dòng máu Thuỵ Điển”; còn những ông bà gốc Do Thái của Lénine thì nhìn chung đã gia nhập Chính thống giáo và cải sang tên họ Nga một cách bắt buộc, xuất phát từ những ý đồ mang tính sách lược.
Vào những năm 1990-1991 độc giả và khán giả truyền hình trở nên quá quen thuộc với thể phóng sự báo chí mà nhiều tác giả đã sử dụng để bóc lớp mặt nạ của Lénine, phơi bày bản chất tự nhiên đích thực của ông và giải thích cái bản chất ấy đã có ảnh hưởng như thế nào tới lịch sử nước Nga.
5.Tinh thần bài Do Thái và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi toát lên từ một số tài liệu vừa kể trên làm nẩy sinh những cuộc tranh luận đáp trả, thủ pháp tranh luận là giễu nhại, bông đùa. Một trong số những tác phẩm thuộc thể phản trinh thám có nghĩa lí nhất theo kiểu ấy là trò chơi lường gạt tuyệt vời của Sergei Kurekhin trong chương trình mang tính đại chúng “Ngôi nhà tĩnh mịch” phát trên kênh 5 đài truyền hình Léningrad. Khi ấy kênh truyền hình này vẫn còn được tiếp sóng trên toàn bộ Liên bang35. Từ cuối năm 1990, Kurekhin đã có ý đồ làm một chương trình truyền hình như thế, và nó đã được thực hiện đúng vào lúc người ta tỏ ra đặc biệt hào hứng khám phá những bí mật trong bản chất tự nhiên của Lénine 36.
Ở phần mở đầu, người dẫn chương trình là Sergei Solokhov gọi Kurekhin là “nhà hoạt động chính trị và nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng”, rồi giới thiệu rằng Kurekhin mới từ Mexico trở về sau chuyến đi nghiên cứu ảnh hưởng của các chất gây ảo giác đối với cách mạng xã hội. Kurekhin tuyên bố, đây mới chỉ là phần đầu nằm trong tổng thể của một chương trình truyền hình nhiều tập, được trình chiếu nhằm đề xuất “một hướng tiếp cận hoàn toàn mới đối với những sự kiện lịch sử trên đất nước ta và trên thế giới mà ai cũng đã biết rõ, với những sự thật mà mọi người đều hiểu tường tận”37. Tiếp theo, Kurekhin lại quay về với thủ pháp yêu thích của ông - ông bắt đầu bằng những ý kiến phát biểu rất nghiêm túc, sau đó dẫn câu chuyện tới chỗ hoàn toàn phi lí, nhưng vẫn giữ nguyên sự nghiêm túc và thành thực trong cách thức trình bày. Qua nghệ thuật trình bày tài tình của Kurekhin, thể loại này gợi dậy sự phản ứng rất khác thường ở đa số khán giả không được báo trước, đó là sự hoà trộn của bối rối, mê mẩn, nửa tin, lại nửa ngờ, phân vân không biết người kể chuyện đang nói nghiêm túc hay đang đùa bỡn38. Với phong cách ấy Kurekhin hút hồn khán giả, buộc họ nhìn dán mắt vào camera để nghe ông diễn thuyết một bài giảng khoa học rất dài nói về những bí mật trong bản tính của Lénine và ảnh hưởng của những bí mật ấy đối với phong trào cách mạng bolsevich.
Bài diễn thuyết được ông bắt đầu như thế này: “Hôm nay tôi sẽ nói về bí mật cơ bản của cuộc cách mạng tháng Mười. Vì rằng trong đấu tranh cách mạng mọi chuyện không đơn giản như người ta vẫn nghĩ. Cách mạng bao giờ cũng có một cái gì đó khiến tôi ngạc nhiên, có một câu đố nào đó mãi mãi là câu đố”39. Tiếp theo, trong quá trình bàn luận những chuyện mênh mông bể sở bằng giọng nghiêm túc, theo kiểu khoa học, Kurekhin giải thích rằng Lénine và các nhà cách mạng, bạn chiến đấu của ông, đều rất thích hái nấm và ăn nấm. Nhiều loại nấm ở nước Nga, nhất là nấm đại hồng nhung, có ảnh hưởng tới ý thức chẳng thua kém chút nào so với cây lưỡi rồng - loài gây ảo giác Lophophora Williamsi nổi tiếng của Mexico40. Sau nhiều năm sử dụng các loài nấm như thế, “nhân cách của người dần dần bị lấn át bởi tính cách” của nấm, và các loài nấm lặng lẽ trở thành bản chất riêng của người <…> Tức là người lặng lẽ hoá thành nấm”. Rồi Kurekhin đưa ra lời tuyên bố nổi tiếng: “…Tôi có những bằng chứng không thể chối cãi để chứng minh, rằng toàn bộ cuộc cách mạng tháng Mười được tiến hành bởi những người nhiều năm ăn một loại nấm như thế. Trong quá trình bị những con người như thế sử dụng, nấm lấn át phần nhân tính của người, và người đã hoá thành nấm. Tức là tôi chỉ muốn nói, rằng chính Lénine là nấm”41. Kurekhin trích dẫn rất nhiều công trình triết học, tay chỉ lên biểu đồ để khán giả theo dõi, rồi ông lại tiếp tục bổ sung hàng đống chứng lí để chứng minh, rằng bản tính tự nhiên của Lénine quả đã biến đổi từ nhân tính thành nấm tính. Trong suốt buổi truyền hình, cái quan điểm điên khùng ấy lúc nào cũng được trình bày bằng thứ ngôn ngữ tuyệt vời cùng với sự nghiêm túc, thuyết phục mãnh liệt mà chỉ Kurekhin mới có được.
Đã có rất nhiều khán giả truyền hình không biết nên hiểu thế nào về câu chuyện của Kurekhin. Họ hoang mang gọi điện thoại đến đài truyền hình yêu cầu giải thích. Công chúng từng xem trò lường gạt của Kurekhin không chỉ là những khán giả ít học, mà còn có nhiều trí thức thứ thiệt, lúc ấy, phần lớn, họ chưa biết Kurekhin. Trong số những trí thức như thế có thể kể tên nghệ sĩ Konstantin Raikin, một nghệ sĩ rất sành điệu trong thể loại trung gian giữa giễu nhại và trào phúng và giàu kinh nghiệm trong trò “châm chích”, “bông lơn”. Điều đó nói lên một thực tế thú vị, không phải thực tế về sự ngây thơ của đám đông khán giả, mà là thực tế về sự xuất hiện của một thể loại hình như đã trở nên quá ư tự nhiên, bình thường ở thời điểm giáp ranh giữa 1990 và 1991: thể loại điều tra những nguồn cội bí mật trong bản tính tự nhiên của Lénine và những bí mật mang tính sinh học có ảnh hưởng thế nào đối với lịch sử đất nước và số phận cá nhân con người42.
Nhớ lại ấn tượng đầu tiên sau khi xem truyền hình, Konstantin Raikin kể rằng, ông đã bị mê hoặc “giống như một công dân xô - viết bình thường, như người ta nói, từ lâu đã quen tin tưởng vào những câu chuyện nghiêm túc. Kurekhin khi ấy đã làm được điều đó hết sức tuyệt vời theo kiểu một nghệ sĩ. Nó là của trời cho. Chúng ta không ai nghĩ mình là thằng ngốc, và như người ta nói, ai cũng biết được mức độ của sự đùa bỡn. Như người ta nói, khi não bộ làm người ngu đi… Huống chi đây lại là Lénine. Khi đó tất cả những chuyện ấy vẫn còn là chuyện nghiêm túc. <…> Dám bịa ra những chuyện đùa bỡn lãnh tụ như thế…Vào lúc ấy, đó là chuyện chưa phổ biến”43.
Người ta không thể phát hiện ra ngay trò đùa của Kurekhin. Nhưng cũng chẳng phải chờ lâu, khi trò đùa ấy được phát hiện thì cũng có thể xem đó là bước đi cuối cùng trong quá trình điều tra, nghiên cứu bản chất tự nhiên của Lénine mà kết quả là mọi ý nghĩa gắn với Lénine đều bị đảo ngược hoàn toàn. Raikin nhớ lại: “Khi tôi nhận ra mình bị lừa, mình đã nuốt phải quả lừa ấy, tôi thực sự ngạc nhiên. <…> Với tôi, ông ấy là một trong số những người giúp tôi cảm nhận được một thời đại mới đã thực sự bắt đầu trong đời sống của đất nước chúng ta. Khi tôi thấy có thể như thế, và điều ấy đã diễn ra thật tài tình. Té ra có thể cười hả hê làm sao đối với những gì ta tưởng là bất di bất dịch, tưởng là không thể cười, đồng thời cũng là cười nhạo tất cả chúng ta. Điều đó thật kì diệu. Đó là cảm giác tuyệt vời thế nào ấy về một bầu không khí tự do…”44. Buổi truyền hình của Kurekhin hoá thành bản tổng kết độc đáo bước đi của năm 1990, theo đó hình tượng Lénine trong diễn ngôn của đảng và của xã hội dần dần thay đổi: từ một lãnh tụ bị quy phạm hoá, không thể phê phán, Lénine biến thành một chủ thể xa lạ, trong chiều sâu của bản tính tự nhiên có cả một núi những chuyện bị bưng bít, bí mật từng ảnh hưởng sâu sắc tới bước đi của lịch sử.
Trước khi kết luận, xin phép được trở lại với luận điểm nhập đề ở phần đầu bài viết. Trong suốt chiều dài lịch sử của Liên Xô, biểu tượng Lénin là thành trì từ phía bên ngoài được tựa vào để cấu tứ các diễn ngôn tư tưởng, là ô dù che chở để khẳng định tính chính thống của tư tưởng hệ. Nhưng trong năm 1990, vị trí của Lénin trong cấu trúc diễn ngôn tư tưởng đã thay đổi. Lúc đầu trên mặt báo thấy xuất hiện luận điểm cho rằng, lời nói và tư tưởng đích thực của Lénine đã bị xuyên tạc trong suốt cả chiều dài của lịch sử xô - viết. Luận điểm ấy nêu lên sự nghi ngờ, rằng tất tật những điều Lénine phát biểu đã được in trong các tài liệu gốc thời xô - viết đều là không đúng, đồng thời, nó làm nẩy sinh một nghịch lí nội tại trong cấu trúc của diễn ngôn tư tưởng: một mặt, diễn ngôn tuyên bố nhiệm vụ chính của cải tổ là quay về với Lénine đích thực, mặt khác, nó lại cho rằng không ai rõ Lénine đích thực là gì.
Nghịch lí trên đã dẫn tới sự thay đổi của hình tượng Lénine trong suốt năm 1990 như thế nào, xin không đi sâu vào chi tiết, chỉ xin bổ sung, kết quả chủ yếu của sự thay đổi ấy là nó đã thúc đẩy tình trạng khủng hoảng mới bắt đầu trong cấu trúc của hệ tư tưởng xô - viết. Kéo theo những thay đổi trong tư tưởng hệ là sự triệt tiêu của khả năng bấu víu vào một thứ chân lí tuyệt đối, được áp đặt từ phía bên ngoài mà lúc ấy hình ảnh Lénine chính là biểu tượng. Kết cục là trong con mắt của xã hội, hệ tư tưởng xô - viết bắt đầu đánh mất tính chính thống để biến thành một trong muôn vàn chân lí lớn nhỏ bình đẳng với nhau, và công chúng có thể nghi ngờ khi nhìn nó từ các chân lí khác. Mặt trái của quá trình ấy là tính chính thống của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng: vai trò dẫn dắt, lãnh đạo của nó với tư cách là đại diện cho hệ tư tưởng xô - viết cũng mất đi tính pháp lí của một thứ chân lí tuyệt đối, không thể bác bỏ. Mặc dù vào những năm cuối của tiến trình cải tổ có rất nhiều sự kiện quan trọng, nhưng chính việc đánh mất vị trí chính thống của Lénine diễn ra vào năm 1990 có thể nói là thay đổi quan trọng nhất tạo nên sự khủng hoảng nhanh chóng và không thể đảo ngược của toàn bộ hệ thống.
Xin nhắc lại một vài kết quả của quá trình ấy. Cứ nhìn vào thực tiễn thay đổi tên gọi của các địa phương gắn với tên tuổi của Lénine, ta sẽ tìm thấy ngay bằng chứng nói lên quá trình xoá bỏ vị trí bất khả xâm phạm của Người. Việc thay đổi tên gọi của thành phố Léningrad là một trong những sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhất. Vào đầu năm 1990, một số dân biểu của Hội đồng thành phố Léningrad đã nêu vấn đề cần phục hồi cho thành phố tên gọi lịch sử Saint - Peterburg. Ở thời điểm ấy, ý tưởng này còn bị xem là viển vông. Đa số dân biểu, kể cả Thị trưởng Anatoli Sobtzak đã biểu quyết chống lại việc đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong vòng 12 tháng của năm 1990, hình ảnh Lénine đã có nhiều thay đổi, và đến cuối năm ấy, ý tưởng về việc đổi tên thành phố lại xuất hiện. Vào tháng 5 năm 1991, Hội đồng thành phố Léningrad đã biểu quyết tán thành tổ chức trưng cầu dân ý; và trong cuộc trưng cầu dân ý, tuyệt đại đa số cư dân nhất trí trả lại cho thành phố cái tên gọi lịch sử45.
Khi Lénine không còn là biểu tượng cho tính chính thống thì đảng cũng đánh mất vị trí chính thống của mình: tháng 3 năm 1990, Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ III đã huỷ bỏ điều 6 Hiến pháp quy định vai trò dẫn đắt và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô; tháng 6 năm 1990, bộ phận bảo thủ của đảng đã thành lập Ban chấp hành Trung ương đảng toàn Liên bang Nga với ý đồ phục hồi tính chính thống của hệ tư tưởng xô - viết và vai trò lãnh đạo của đảng; tháng 7 năm 1990 diễn ra Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVIII, và nó đã trở thành Đại hội cuối cùng; tại Đại hội, nhóm các đại biểu thuộc phe dân chủ không thực hiện được ý đồ cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô thành Đảng Dân chủ theo kiểu nghị trường; kết quả là nhiều đại biểu (Elsin, Sobtzak, Popov …) đã tuyên bố ra khỏi hàng ngũ của Đảng Liên Xô; làn sóng ra khỏi hàng ngũ Đảng Cộng sản Liên Xô ngày càng lan rộng trên phạm vi toàn quốc (Nếu năm 1989 Đảng Cộng sản Liên Xô mới chỉ mất 140 nghìn đảng viên, thì năm 1990, nhất là từ mùa hè, con số thống kê đã lên tới 2,7 triệu46).
Mùa thu năm sau, năm 1991, Xô - viết tối cao Liên Xô đã ban hành hai sắc lệnh: sắc lệnh về việc đổi tên Lénengrad thành Saint - Peterburg và sắc lệnh về việc nghiêm cấm Đảng Cộng sản Liên Xô. Mặc dù nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự ra đời của hai sắc lệnh ấy là sự thất bại của các lực lượng bảo thủ trong vai trò lãnh đạo của đảng đã mưu toan tiến hành cuộc đảo chính nhà nước, nhưng bản thân việc hình thành và thông qua những sắc lệnh như thế không thể giải thích bằng bạo loạn, mà chỉ có thể giải thích bằng việc Đảng và Lénine đã đánh mất hoàn toàn vị trí chính thống ở cấp độ hệ tư tưởng quốc gia. Nói cách khác, hai sự kiện ấy chỉ củng cố về phương diện pháp lí quá trình biến đổi của tính chính thống về cơ bản đã diễn ra từ trước đó, trong năm 1990.
Lã Nguyên dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Đồng Bát, 2 tháng 7 năm 2007
Nguồn: Blog Phạm Viết Đào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét